Những nhà chuyên môn tâm lý học, không sống gần đám đông, thường bỏ qua không chú ý đến nó, và nếu có, họ chỉ chú trọng đến những hành động liên quan tới tội ác, là cái thuộc vào khả năng của nó. Ngày đó không có một quán làng nào là không thấy có treo ảnh của người anh hùng. Những người khác sẽ khảo sát lĩnh vực này tốt hơn[2].
Dĩ nhiên họ thể hiện những tính cách đó một cách vô thức, nhưng cái đó không quan trọng. Dân chúng như vậy tuyệt nhiên không hề có quyền lực để thực sự thay đổi các thể chế. Người ta không cần phải quay trở lại cái thời của những anh hùng để có thể nhận ra được đám đông có khả năng gì.
Chỉ đến khi những người tù tha thiết van xin, viên cai ngục kia mới không bị mất mạng. Chỉ trong các loại tiểu thuyết, chứ không phải trong cuộc sống thực tế, các cá thể mới có một tính cách bền vững. Với một kho dự trữ nhỏ những khẩu hiệu và những điều sáo rỗng học được lúc còn trẻ, chúng ta có tất cả những gì cần thiết để không cần phải mất công suy nghĩ mà vẫn đi suốt cả cuộc đời.
Chính những cái trái ngược đó đã làm cho họ sợ bị coi là những kẻ phản bội hoặc đồng phạm. Những luật lệ dựa trên lương tri thuần túy không thể quản lý được họ. Những người đã chết thường lại là những người có nhiều uy lực nhất, có nghĩa là những con người mà ta không còn cảm thấy sợ hãi nữa như: Alexander đại đế, Cäsar, Mohammed, Buddad.
Sách vở là những thứ cần thiết để tra cứu, tuy nhiên sẽ hoàn toàn vô tích sự khi phải nhớ cả một đoạn dài trong đầu. Không chỉ ai cầu nguyện trước Chúa mới là người sùng đạo, người sùng cũng là người mà ngay cả khi, bằng tất cả sức lực của trí tuệ, tất cả sức mạnh của ý chí, tất cả sự nóng bỏng của niềm tin chỉ để phục vụ cho một quyền lực hoặc một con người, với mục đích để cho nó trở thành kẻ dẫn lối mọi suy nghĩ và hành động của mình. Ngoài ra người ta còn phán quyết dựa trên hình dáng và uy tín nữa.
Tác động của nó cũng thể hiện trong các tính chất của đám đông. Không bao giờ họ mặc cả sinh mạng của mình trong một cuộc khởi nghĩa; mới chỉ vài năm cách đây không lâu, một ông tướng (tướng Boulanger) bỗng nhiên được nhân dân yêu mến, một khi ông ta đòi hỏi, dễ dàng có hàng ngàn người sẵn sàng chém giết vì sự nghiệp của ông ta. Nếu người ta từ những bài học của quá khứ rút ra những kết luận và phán xét tùy theo những dấu hiệu thể hiện khắp mọi nơi thì sẽ có nhiều nền văn hóa hiện đại của chúng ta đang ở nấc thang của sự già cỗi cao nhất, và đang trên đường thoái hóa.
Các động lực trực tiếp truyền sự sống cho niềm tin của đám đông - nghĩa là cung cấp cho ý tưởng hình dạng của nó và giải phóng nó cùng với tất cả những hậu quả của nó. Đám đông không bao giờ khao khát sự thật. Quyền lực của kẻ chiến thắng và sức mạnh của nhà nước được xây dựng trên trí tưởng tượng của người dân.
Đám đông chỉ có thể suy nghĩ qua hình ảnh và chỉ để các hình ảnh tác động vào mình. Sau đó thời gian đã hoàn tất tác phẩm của mình. Trong khi mọi quan điểm cũ của chúng ta lung lay và biến mất, những trụ cột xưa của xã hội nối tiếp nhau sụp đổ, thì quyền lực của đám đông là lực lượng duy nhất không gì có thể đe dọa được và uy quyền của nó ngày càng phát triển không ngừng.
Ngôn từ cũng sống động tựa như ý tưởng. Và như thế trong các cuộc giằng co, nếu những người tham gia ngay từ đầu không có những quan điểm được thiết lập một cách chắc chắn thì người lãnh đạo sẽ là người làm chủ tình hình. Diễn văn của một trong những người nổi tiếng trong số họ, Robespierre, thường lộ rõ những điểm không mạch lạc.
Bằng cách giải thích như vậy cho trường hợp, xảy ra cũng khá lâu, về một người mẹ dường như nhận ra xác chết của con mình, như sẽ trình bày sau đây, đã làm sáng tỏ hai hình thức tác động, mà quá trình hình thành nên chúng, tôi cũng đã đề cập đến. Các động lực gián tiếp tạo cho đám đông khả năng tiếp nhận những đức tin nhất định nào đó và ngăn cản sự thâm nhập của các đức tin khác. Điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào loại ảnh hưởng tác động vào đám đông.